Hịch Tướng Sĩ
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là vị anh hùng dân tộc, văn võ song toàn. Tên tuổi ông gắn liền với Binh thư yếu lược, Hịch tướng sĩ và chiến công Bạch Đằng bất tử. Ông được vua nhà Trần cử giữ chức Tiết chế thống lĩnh lãnh đạo cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1288) đánh thắng quân xâm lược Nguyên – Mông. Hịch tướng sĩ được Trần Quốc Tuấn viết vào năm 1282 và trước hội nghị quân sự Bình Than của các vương hầu. Đó là một luận văn quân sự nổi tiếng trong lịch sử dân tộc, là lời kêu gọi chiến đấu quyết tâm đánh thắng quân xâm lược để bảo vệ sơn hà xã tắc của ông cha ta hơn bảy trăm năm về trước từng làm sôi sục lòng người. Có ý kiến cho rằng: Hịch tướng sĩ là khúc tráng ca hùng sáng ngời hào khí Đông A. Đông A là khái niệm mà các nhà lịch sử dùng để chỉ triều đại nhà Trần (1226 – 1400); hào khí nghĩa là chí khí hào hùng, chí khí anh hùng. Câu nói trên nhằm ca ngợi Hịch tướng sĩ là bản anh hùng ca sáng ngời chí khí hào hùng, chí khí anh hùng của Đại Việt trong triều đại nhà Trần. Bài hịch đã vạch trần âm mưu xâm lược của giặc Nguyên – Mông, thể hiện lòng căm thù giặc sôi sục, nêu cao ý chí quyết chiến quyết thắng, sẵn sàng xả thân trên chiến địa để bảo vệ sơn hà xã tắc. Hào khí Đông A toả sáng trong Hịch tướng sĩ chính là lòng yêu nước nồng nàn, khí phách anh hùng lẫm liệt của tướng sĩ nhà Trần và của nhân dân ta trong thế kỉ XIII đã ba lần đánh thắng giặc Nguyên – Mông. Hịch tướng sĩ là một khúc ca, bởi lẽ trước hết Trần Quốc Tuấn đã nêu cao gương sáng các bậc trung thần nghĩa sĩ, những mẫu người lí tưởng của chế độ phong kiến đã xả thân vì lòng trung quân ái quốc. Đó là Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Thân Khoái, Kinh Đức, Cảo Khanh... đã bỏ mình vì nước, thoát khỏi thói nữ nhi thường tình trở thành vĩ nhân lưu danh sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ được. Hịch tướng sĩ là bản hùng ca của Đại Việt sáng ngời hào khí Đông A. Nó thể hiện một tầm nhìn chiến lược, thấy rõ tim gan đen tối, dã tâm của quân giặc phương Bắc, tham lam tàn bạo cực độ, của âm mưu biến nước ta thành quận, huyện của chúng. Sức giặc đi nghênh ngang ngoài đường, coi kinh thành Thăng Long như lãnh địa của chúng. Lòng tham vô đáy, lúc thì chúng thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, lúc thì giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn. Chúng là cú diều, là dê chó, là hổ đói rất bẩn thỉu, tham lam, độc ác, phải khinh bỉ và càm ghét tận xương tuỷ, phải tiêu diệt! Hịch tướng sĩ là tiếng nói căm giận bốc lửa quyết không đội trời chung với lũ giặc Nguyên – Mông. Nó là khúc tráng ca chứa chan tinh thần yêu nước, biểu lộ khí phách của người anh hùng Trần Quốc Tuấn quyết chiến quyết thắng quân xâm lược, nguyện xả thân trên chiến trường để bảo vệ Tổ quốc Đại Việt. Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng. Có thể nói, đây là đoạn văn hay nhất, hùng tráng nhất trong Hịch tướng sĩ thể hiện một cách tuyệt vời Hào khí Đông A. Hịch tướng sĩ là một áng văn chính luận đanh thép nhất, hào hùng nhất thể hiện chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng Đại Việt sáng ngời hào khí Đông A. Trần Quốc Tuấn đã nói với tướng sĩ đời Trần về nhục và vinh, thắng và bại, mất và còn, sống và chết, khi vận mệnh Tổquốc lâm nguy. Mất cảnh giác, chỉ biết hưởng lạc như: lấy việc chọi gà làm vui đùa,... lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển; (...) lo làm giàu mà quên việc nước, ham săn bắn và quên việc binh, chỉ thích rượu ngon, mê tiếng hát,... thì bại vong là tất yếu. Nếu có giặc Mông cổ tràn sang thì ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào? Bại vong là thảm hoạ: Chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc của ngươi cũng mất, chẳng những gia quyến của ta bị tan, mà vợ con các ngươi cũng khốn, chẳng những xã tắc tổ tông ta bị giày xéo mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên, chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ không rửa, tên xấu còn lưu, mà đến gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang tiếng là tướng bại trận. Thân làm tướng, kẻ nam nhi trong thời loạn phải biết lo khi nhìn chủ nhục; phải biết thẹn khi thấy nhục; phải biết tức khi thấy nước nhục; phải biết tức khi phải hầu quân giặc, phải biết căm khi nghe nhạc Thái thường để đãi yến nguỵ sứ! Thân làm tướng phải cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu: huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rửa thịt Vắn Nam Vương ở Cảo Nhai. Đó là quyết chiến quyết thắng, là vinh quang. Hịch tướng sĩ sáng ngời hào khí Đông A, nó có tác dụng khích lệ, động viên tướng sĩ quỵết chiến quyết thắng Nguyên – Mông. Hịch của vị Tiết chế Quốc công như tiếng kèn xung trận vang dội núi sông. Nó đã góp phần không nhỏ tạo nên sức mạnh của đoàn dũng sĩ Sát Thát lập nên bao chiến công oai hùng nhự Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng Giang... Hịch tướng sĩ đã phản chiếu sáng ngời hào khí Đông A qua những tấm gương đầy khí phách lẫm liệt. Bài hịch là tiếng nói sắt đá vang lên trong những giờ phút hiểm nghèo: “Nếu bệ hạ muốn hàng, xin chém đầu thần trước đã!” là tư thế lâm liệt hiên ngang của Trần Bình Trọng. Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc, là chí khí anh hùng của Trần Quốc Toản: Phá cường địch, báo hoàng ân, là dũng khí của Phạm Ngũ Lão với đạo quân phụ – tử chi binh trăm trận trăm thắng
Tóm lại, Hịch tướng sĩ là tác phẩm lớn nhất, biểu hiện tinh thần yêu nước của văn học đời Trần. Qua bài hịch, ta càng thêm ngưỡng mộ và biết ơn vị anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn. Hịch tướng sĩ còn có tác dụng to lớn, sâu sắc bồi dưỡng lòng yêu nước, khí phách anh hùng, tinh thần tự lập tự cường cho thế hệ trẻ Việt Nam.
Thuật Hoài
Phạm Ngũ Lão
(1255-1320), là một vị tướng tài dưới triều Trần, từng đóng góp rất nhiều công
lao trong cả hai cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên xâm lược. Khi còn tại
thế ông đã từng giữ đến chức Điện súy, phong tước quan nội hầu, đương thời ông
chỉ xếp sau cha vợ mình là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn - vị tướng vĩ đại
nhất lịch sử phong kiến nước ta về danh tiếng. Tuy là con nhà võ, hàng năm quen
chuyện binh đao thế nhưng Phạm Ngũ Lão cũng lại là người rất yêu thích thơ ca
và được người đời khen tặng là văn võ toàn tài. Ông từng sáng tác rất nhiều bài
thơ hay, thế nhưng theo dòng lịch sử đa số bị thất lạc, đến nay chỉ còn lại hai
bài Tỏ lòng và Viếng thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương. Về thi ca,
trong văn học trung đại luôn nằm trong một quy phạm chung, làm thơ thì phải bao
hàm chữ “chí”, trong “Văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí”. Nghĩa rằng thơ văn thì
phải truyền tải một nội dung giáo dục nào đó to lớn, và Tỏ lòng của Phạm Ngũ
Lão là một trong số những bài thơ tiêu biểu nhất thể hiện cái tính quy phạm đặc
trưng này của nền văn học trung đại - lời là lời giáo huấn về chí nam nhi đầy
hào khí của thời Trần.
Cho đến tận ngày hôm
nay vẫn chưa có một cứ liệu chính xác nào về hoàn cảnh ra đời của Tỏ lòng
(Thuật hoài), nhưng theo một số suy đoán thì bài thơ được sáng tác vào năm
1284, trước khi diễn ra diễn ra cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên lần thứ
hai. Lúc này Phạm Ngũ Lão được cử đi trấn giữ biên giới cùng một số tướng lĩnh
khác để chuẩn bị cho chiến sự.
Ở hai câu thơ đầu
Phạm Ngũ Lão đã tái hiện một cách xúc tích và ấn tượng về vẻ đẹp của con người
và quân đội thời Trần.
“Hoành
sóc giang sơn kháp kỷ thu,
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.”
Để khắc họa hình ảnh
con người thời Trần, tác giả đã khéo léo dựng lên một bối cảnh không gian và
thời gian rất đặc biệt, là một cái phông nền độc đáo để từ đó làm nổi bật lên
vẻ đẹp của những con người sống dưới triều Trần, một triều đại nhiều bão táp mưa
sa nhất lịch sử phong kiến. Về bối cảnh không gian, Phạm Ngũ Lão chọn hai chữ
“giang sơn” vốn là từ ghép hợp nghĩa, ở đây tức là chỉ sông núi, từ đó mở ra
trước mắt người đọc một không gian vô cùng bao la, rộng lớn và khoáng đạt, đó
là không gian của cả một quốc gia, dân tộc. Bên cạnh không gian, thì bối cảnh
thời gian được gợi mở bằng ba từ “kháp kỷ thu”, ý chỉ đã qua hết mấy thu rồi,
trước cái cách đo đếm thời gian ấy đã gợi cho người đọc về một khoảng thời gian
dài lâu, có bề dày lịch sử bền vững. Trên cái nền không gian, thời gian dài
rộng ấy lại nổi bật lên hình ảnh con người trong tư thế “hoành sóc”, cầm ngang
ngọn giáo để trấn giữ non sông đã qua mấy thu. Tầm vóc của con người nổi bật
thông qua hình ảnh ngọn giáo dường như được đo bằng cả chiều rộng của giang
sơn, chiều dài của thời gian, vô cùng hiên ngang và hùng tráng. Mang vẻ kỳ vĩ,
lớn lao, sánh ngang với tầm vóc vũ trụ, đặc biệt tư thế cầm ngang ngọn giáo gợi
ra cho người đọc về phẩm chất kiên cường, bền bỉ, anh dũng luôn trong tư thế
sẵn sàng chiến đấu, trong nhiệm vụ trấn giữ non sông, bảo vệ đất nước như những
vị thần. Điều này gợi nhắc ta về câu chuyện lịch sử, quân Mông - Nguyên mượn cớ
mượn đường nước ta để sang đánh Chiêm Thành, nhưng thực tế âm mưu của chúng là
hòng thôn tính Đại Việt. Trước sự nghi ngại, quân đội nhà Trần quyết lật đổ âm
mưu của giặc, trong sự chuẩn bị bao gồm việc cử Phạm Ngũ Lão và một số tướng
lĩnh tài giỏi ra trấn giữ tại biên giới để đề phòng giặc tấn công bất ngờ.
Trước hoàn cảnh ấy, có lẽ ứng với hình ảnh vị tướng cầm ngang ngọn giáo, kiêu
hùng canh giữ từng tấc đất của Tổ quốc là hoàn toàn hợp lý và xuất phát từ
những sự kiện có thật để tạo nên cảm hứng đầy hào khí hiên ngang, mạnh mẽ trong
Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão. Tản mạn một chút về câu thơ dịch “Múa giáo non
sông trải mấy thu” của Bùi Văn Nguyên, thì có lẽ rằng ý thơ chưa thực sự đạt,
bởi với hai từ “múa giáo” thực tế chỉ cốt thiên về cái “mỹ”, đẹp và có chất
thơ, nhưng lại thiếu đi cái chí “hùng” mà tác giả muốn biểu đạt. Còn trong bản
gốc hai từ “hoành sóc” mới thực sự diễn tả đúng cái khí thế hùng tráng,
hiên ngang của một vị tướng, thậm chí là biểu đạt vẻ kiên cường,
hào khí cho cả một thế hệ những con người dưới thời Trần, trước hai cuộc kháng
chiến chống quân Mông - Nguyên xâm lược.
Đó là hình ảnh con
người thời Trần, ở câu thừa đề, tác giả đã sử dụng từ “tam quân” tức là ba
quân, là đặc trưng của các tổ chức quân đội thời xưa, của các nước phương Đông
bao gồm tiền quân, trung quân và hậu quân. Mà ẩn chứa sau đó là tác giả muốn
nói về sức mạnh về cái sự đồng lòng của toàn quân, toàn dân tộc trong công cuộc
kháng chiến. Đặc biệt để diễn tả được sức mạnh và hào khí của quân đội trong
thời đại này tác giả đã sử dụng phép so sánh “Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu”.
Phép so sánh này đã gợi ra cho người đọc hai cách hiểu chính, thứ nhất có thể
diễn giải đơn giản theo ý trên mặt chữ rằng ba quân mạnh như hổ, như báo có thể
nuốt trôi cả một con trâu lớn. Một cách hiểu thứ hai có phần văn vẻ và suy diễn
nhiều hơn ấy là sức mạnh của ba quân như hổ báo, thậm chí át cả sao Ngưu đang
ngự trên trời. Cách hiểu thứ hai vừa mang giá trị hiện thực vừa mang một chút
cảm hứng lãng mạn hiếm có trong thi ca trung đại, gợi tạo cảm hứng sử thi anh
hùng ca mạnh mẽ. Tổng kết lại sức mạnh của quân đội thời Trần được tóm gọn bằng
cụm từ “hào khí Đông A”, gọi là Đông A bởi vốn hai chữ này là hai bộ thủ trong
chữ Hán ghép lại thành chữ Trần.
Sau hai câu khai đề
và thừa đề diễn đạt hào khí chung của dân tộc, thì đến hai câu chuyển và câu
hợp là để giải thích và làm rõ ý của câu đề và của cả bài thơ. Chuyển là chuyển
từ khách thể sang chủ thể là tác giả, để bày tỏ nỗi lòng, tâm tư, nguyện vọng của
bản thân về chí làm trai, về món nợ công danh phải trả cho đất nước. Đồng thời
câu hợp để kết lại, thể hiện sáng rõ vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách lớn lao của
Phạm Ngũ Lão. “Nam nhi vị liễu công danh trái” ý chỉ lý tưởng, chí lớn lập công
danh, thể hiện qua quan niệm, nhận thức của tác giả về món nợ công danh của kẻ
làm trai. Ở đây món nợ công danh xuất phát từ quan niệm “nhập thế tích cực” của
Nho giáo, khác với quan niệm “xuất thế” của Phật giáo, chủ trương lánh đời, ở
ẩn, quên đi chuyện thế sự, nhiễu nhương, để tâm hồn thanh tịnh,.... Thì đối với
Nho giáo, con người đặc biệt là người nam nhi phải mạnh mẽ đứng giữa cuộc đời
sóng gió, dùng hết tài trí sức lực của mình để cống hiến cho đời, giúp dân giúp
nước. Trong đó việc ứng thí khoa cử, tham gia vào chốn quan trường chính là một
trong những biểu hiện rõ rõ nét và phổ biến nhất của quan niệm “nhập thế tích
cực”, và Phạm Ngũ Lão chính là một trong số những con người chịu ảnh hưởng sâu
sắc bởi quan niệm này. Quan niệm ấy đã tạo dựng nên mục đích sống, lý tưởng
sống chung của các đấng nam nhi dưới thời đại này là phải lập được công danh,
có sự nghiệp, tiếng thơm lưu truyền đến muôn đời. Trở thành một trong những
điều tối cần của chí làm trai, mà trong văn học Việt Nam đã từng có rất nhiều
nhà thơ đề cập đến ví như Nguyễn Công Trứ với “Chí làm trai nam bắc đông
tây/Cho thỏa sức vẫy vùng trong bốn bể”. Đặt trong hoàn cảnh đất nước đương
thời, quân xâm lược đang ngấp nghé bờ cõi, thì cũng là lúc để cho những kẻ làm
trai có cơ hội trả món nợ công danh, ra sức giúp nước, giúp dân lập chí lớn.
Người nam nhi phải từ bỏ những lối sống tầm thường, ích kỷ, vui vầy vợ con,
ruộng vườn để xông pha trận mạc sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp cứu nước, cứu
dân. Có thể nói rằng món nợ công danh trong trong nhận thức của Phạm Ngũ Lão
vừa mang tư tưởng tích cực của thời đại vừa mang tinh thần dân tộc sâu sắc.
Chính vì thế nó luôn canh cánh, trăn trở trong cõi lòng của tác giả.
Bên cạnh chí lớn làm
trai cùng với quan niệm món nợ công danh trước thời cuộc, thì câu thơ cuối
chính là câu thơ tỏ rõ vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao thượng của Phạm Ngũ Lão.
Nhân cách cao của tác giả thể hiện qua nỗi thẹn của ông khi nghe chuyện Vũ Hầu.
Vũ Hầu ở đây chính là chỉ Gia Cát Lượng, một vị quân sư lỗi lạc, một nhân vật
lịch sử vĩ đại, là người cộng sự trung thành, đóng góp những công lao to lớn
trong công cuộc mở mang bờ cõi của Lưu Bị - vua nước Thục trong bối cảnh tam
quốc phân tranh cực gay gắt làm thành thế chân kiềng. Đứng trước con người mang
tầm vóc như vậy Phạm Ngũ Lão dù rằng đã lập được rất nhiều công danh nhưng vẫn
cảm thấy bản thân mình quá nhỏ bé, tựa như hạt cát giữa sa mạc mênh mông, đồng
nghĩa với việc ông ý thức được rằng món nợ công danh đã trả chẳng thấm tháp vào
đâu, mà vẫn còn phải cố gắng trả nhiều hơn nữa thì mới xứng với phận nam nhi,
xứng với Tổ quốc. Từ những biểu hiện trên ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Phạm
Ngũ Lão trước hết là ở ý chí nỗ lực muốn theo gương người xưa lập công danh cho
xứng tầm, thứ hai ấy là lý tưởng, chí lớn mong muốn lập được công dnah sánh
ngang với nhân vật lịch sử lỗi lạc. Có thể nói rằng nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão
là nỗi thẹn của một nhà nho có nhân cách lớn, cũng là nỗi thẹn của một người
dân yêu nước khi mà cái họa xâm lăng vẫn đang treo lơ lửng trước mắt.
Thuật hoài đã khắc
họa vẻ đẹp của người anh hùng vệ quốc hiên ngang, đồng thời cũng cho thấy sự
lẫm liệt, lý tưởng và nhân cách lớn lao của con người thời Trần, từ đó khái
quát hóa, ca ngợi hào khí của những con người đương thời - vẻ đẹp của hào khí
Đông A. Về nghệ thuật, bài thơ có tính hàm súc, cô đọng “quý hồ tinh, bất quý
hồ đa”, đồng thời bài thơ còn mang tính sử thi với những hình tượng thơ kì vĩ
lớn lao đã nâng tầm vóc người anh hùng sánh ngang với tầm vóc của vũ trụ rộng
lớn.
Đăng nhận xét